Định giá các Lending Protocol
Chào anh em, meme hay những cú Tweet của các KOLs có thể khiến giá bay rất nhanh, nhưng Giá trị thật mới là thứ cuối cùng quyết định Giá của 1 token. Vậy anh em đang định giá những token trong mảng Lending như thế nào?
Hôm nay mình sẽ lược dịch một bài viết về việc định giá Giao thức Lending của tác giả Mira Christanto @asiahodl, nhà nghiên cứu tại Messari.
Bài định giá này được thực hiện dựa trên cách so sánh về những chi tiêu của một Giao thức Lending, ví dụ như: Số tiền đã cho vay, Giá trị bị khóa (TVL), Tiền lãi tạo ra,… Từ đó đưa ra kết luận rằng đâu là Giao thức Lending đang được định giá thấp.
Anh em đọc bài viết để có thêm góc nhìn trong đầu tư. Đây không phải lời khuyên đầu tư.
Tổng quan về các Giao thức Lending
Lending, hay cụ thể hơn là nhu cầu về vốn, luôn là điều rất cần thiết với bất cứ mảng tài chính nào. Và đặc biệt với DeFi, một nơi như mở ra một ngân hàng cho các anh em trên toàn thế giới, nơi người cho vay và người đi vay có thể dễ dàng gặp nhau mà không cần qua bất cứ trung gian nào.
Các Giao thức Lending từ đó đã tăng trưởng rất mạnh trong năm 2020 và bắt đầu tăng tốc trong năm 2021. Dưới đây là tốc độ tăng trưởng của số tiền được gửi vào trong các Protocol trong giai đoạn vừa qua.
Đó là tổng quan về thị trường Lending, sau đây chúng ta sẽ đi cụ thể hơn vào so sánh những dự án.
Dưới đây là bảng so sánh 5 Protocol chính trong mảng Lending hiện nay: Aave, Compound, Alpha, Maker, Cream.
Ở đây tác giả so sánh nhiều chỉ số giữa những Protocol với nhau, về cụ thể từng chỉ số chúng ta sẽ đi chi tiết ở phía sau, còn ở đây, tác giả đã mô tả khá kỹ lưỡng:
Nếu các chỉ số được tô màu xanh, chứng tỏ dự án đang bị đánh giá thấp so với những đối thủ cùng ngành và ngược lại.
Anh em nhìn sơ qua thì biết dự án nào đang được định giá thấp rồi đúng không? Nhưng hãy từ từ, cùng xuống phần chi tiết ở phía dưới để hiểu rõ hơn về những chỉ số này đang nói lên điều gì.
Giá trị cho vay của các Protocol
Tiền lãi (Doanh thu chính của 1 Lending Protocol) được tạo ra từ Giá trị cho vay. Và dưới đây là so sánh giá trị cho vay giữa các Protocol.
Compound đang chiếm lấy thị phần này. Alpha tuy còn thấp, nhưng chỉ trong 1 tháng đầu tiên ra mắt, đã cho vay hơn $1 B.
Từ số liệu khoản vay này, ta tính ra tỉ lệ Market Cap/ Borrow Volume. Và dễ dàng nhận thấy, nếu chỉ dựa trên số liệu Khoản vay tạo ra, thì Compound đang được định giá rất thấp.
Market Cap của Compound là $2,094 M và cho vay được tới $92,237 M => CMC/ Borrow Volume ~ 2%
Trong khi Market Cap của các đối thủ, ví dụ như của Aave lên tới $5,688 M, nhưng chỉ cho vay được $10,455 M => CMC/ Borrow Volume ~ 54% => Quá chênh lệch so với Compound.
Giá trị được khóa lại (TVL) giữa các Protocol
TVL thể hiện mức độ thu hút vốn, khả năng hấp dẫn của dự án với các nhà đầu tư.
Alpha đang chiếm lấy thị phần này đối với các đối thủ khác. Tuy nhiên, khi xét tỉ số CMC/ TVL, dự án Alpha cũng chỉ được 0.4, bằng với Compound và Maker => đã có sự thể hiện của chỉ số này vào trong giá của Alpha.
Lãi suất tạo ra mỗi năm của các Protocol
Compound và Cream là những dự án được đánh giá thấp ở mảng này, tạo ra đến $450 M và $9 M tiền lãi mỗi năm.
Ở đây tác giả tính chỉ số CMC/ Interest Per Year giữa các Protocol.
Nếu Vốn hóa (CMC) của dự án thấp, mà tạo ra tiền lãi (Interest) nhiều thì đó là một dự án tốt => Chỉ số này càng thấp càng tốt.
Ở đây chỉ số này của Compound chỉ có 5, Cream chỉ có 15, trong khi AAVE và Maker lần lượt lên tới 59 và 34.
Tuy nhiên, một điểm lưu ý ở đây là tiền lãi của nền tảng Maker sẽ được chia lại cho các Token-holder, còn tiền lãi của Compound thì không. Trong tương lai, Compound hoàn toàn có thể thay đổi cơ chế, để token - holder được hưởng 1 phần tiền lãi => nhu cầu của Token Compound sẽ tăng lên rất nhiều.
Tỷ lệ sử dụng vốn giữa các Protocol
Rất nhiều dự án thu hút các nhà cung cấp vốn bằng các Incentives, tuy nhiên, tỉ lệ sử dụng vốn cho chúng ta biết nguồn vốn cung cấp vào có được sử dụng hiệu quả không?
Nếu vốn được sử dụng hiệu quả, các nhà cung cấp vốn cũng nhận được nhiều tiền hơn và khi Incentives mất đi thì dự án vẫn hoạt động hiệu quả.
Ở chỉ số này, Compound, Alpha và Cream đang làm rất hiệu quả.
Lời kết
Một điều rõ ràng, những con số không hề biết nói dối. Chúng thể hiện một cách rõ ràng nhất một dự án đang phát triển như thế nào.
Tuy nhiên, con số cũng chỉ là bề mặt, để tìm hiểu sâu, anh em phải biết được nguồn gốc của những con số này bắt đầu từ đâu, và nguồn đó có ổn định không? Có thể tiếp tục tăng trưởng trong tương lai được không?
Vậy nên, để có thể đầu tư, anh em nên so sánh và đánh giá nhiều chỉ số cùng lúc để có một góc nhìn trực quan nhất.
Trên đây là bài viết định giá các Lending Protocol. Anh em sau khi đọc xong bài viết cảm thấy thế nào? Liệu có nên All in Compound, Cream? Hãy comment ý kiến của anh em ở phía phần bình luận để cùng trao đổi và thảo luận.
Bài viết gốc anh em tham khảo thêm tại đây.